Tìm kiếm

/ languages

Choisir langue
 

TẠP CHÍ ÂM NHẠC

Thiên Chúa, tình yêu và sex trong bài ca Hallelujah của Leonard Cohen (phát lại)

  Bảo Thạch

Bài đăng ngày 01/01/2010 Cập nhật lần cuối ngày  22/01/2010 14:10 TU

Ca sĩ Leonard Cohen(DR)

Ca sĩ Leonard Cohen
(DR)

Tại phương Tây, có một bài ca rất được giới trẻ yêu chuộng, đặc biệt vào mùa Giáng sinh. Thoạt nghe, tưởng lầm là một bài Thánh ca, vì cái tên của nó là Hallelujah. Tác phẩm này do Leonard Cohen soạn nhạc và lời. Hallelujah có nghĩa là “Tạ ơn Thiên chúa”.

Tuy nhiên, đằng sau nhiều hình tượng thánh thiện, đây là tiếng kêu não nùng của con người trần tục gọi Thiên chúa, nhưng Ngài vắng mặt, và hoài niệm tình yêu này chỉ còn là đổ vỡ. Nghe kỹ bài Halleluyah, thính giả sẽ khám phá, bài ca này kể về lòng ham muốn, nỗi đam mê nhục dục, bước sa cơ và mất mát trong thân phận bèo bọt một con người khao khát điều Vĩnh Hằng.

Hallelujah trong tiếng Do thái có nghĩa là “Rạng danh Yahveh” và Yahveh là Thiên chúa. Người Do thái thốt lên câu Hallelujah để tỏ lòng biết ơn Thiên chúa.

 

Alexandra Burke_Hallelujah

01/01/2010

Bài ca này có 5 đoạn, trong phiên bản Jeff Buckley.

Đoạn 1 như sau:

I’ve heard there was a

secret chord

That David played,

and it pleased the Lord

But you don’t really care

for music, do you ?

It goes like this

The fourth, the fifth

The minor fall,

the major lift

The baffled king composing

Hallelujah …

Nghe kể rằng có một

hợp âm bí mật

Mà David đã chơi

và hài lòng Chúa

Nhưng em thiết gì

đến âm nhạc, phải không em ?

Này nhé, nó như vậy:

Quãng tư, quãng năm

Điệu thứ trầm,

điệu trưởng vút cao

Vì vua thất sủng soạn bài

Hallelujah …

David là nhân vật trong Kinh thánh. Một số nhà khảo cổ khẳng định đây là nhân vật lịch sử, nhưng quan trọng hơn cả đối với đông đảo người phương Tây, David là biểu tượng của một vị anh hùng, bởi vì theo Kinh thánh, David đã chiến thắng tên khổng lồ Goliath. Văn võ song toàn, David vừa là một chiến sĩ, vừa là nhà thơ và nhạc sĩ. Do đó hình tựong David thường được biểu hiện trong tranh với một chàng thanh niên ôm chiếc đàn harpe.

Trước khi lên làm vua, David phục tùng Vua Saül và cưới công chúa Mikhal, nhưng uy danh của David ngày càng được thiên hạ tán tụng. Vua Saül đem lòng ghen ghét con rể của mình và sai người thủ tiêu David. Nhờ vào Jonathan, David đã thoát nạn.

Do đó, trong bản Hallelujah của Leonard Cohen, David được gọi là vị vua bị thất sủng và trong cơn thử thách, David đã soạn bài Halleluyah.

Đoạn thứ hai như sau :

Your faith was strong but

you needed proof

You saw her bathing

on the roof

Her beauty and the

moonlight overthrew you

She tied you

To a kitchen chair

She broke your throne,

and she cut your hair

Anh from your lips she

drew the Hallelujah

Hallelujah …

Lòng tin của người mạnh mẽ nhưng người vẫn cứ cần bằng chứng

Người nhìn thấy nàng tắm

trên mái hiên

Sắc đẹp của nàng và

ánh trăng đã làm người gục ngã

Nàng trói người

Vào chiếc ghế trong căn bếp

Nàng đập vỡ ngai vàng của người

Nàng cắt tóc người

Và từ đôi môi người

nàng giành lấy câu Hallelujah

Hallelujah … 

Hình ảnh “Người đã nhìn thấy nàng tắm trên mái hiên” cũng liên quan đến David. Vì vua , một đêm nhìn trộm Bathsheba đang tắm. Say mê trước sắc đẹp của Bathsheba, David chiếm đoạt nàng và sai người hạ sát chồng của Bathsheba. Vì tội này David phải chịu sự trừng phạt của Chúa.

Kế đến câu: “Nàng đập vỡ ngai vàng của người, nàng cắt tóc người” đề cập đến một nhân vật khác của Kinh thánh là Samson. Người hùng Samson bị Dalila mê hoặc và tước đoạt sức mạnh bằng cách  cắt trụi mái tóc của anh. Bởi lẽ bí mật toàn bộ năng lực của Samson nằm ở bộ tóc.

Ở đoạn này, vì một phút yếu lòng trước người đẹp, cả David và Samson sa ngã.

Hoàn cảnh của Samson còn tệ hại hơn David. Sau khi bị Dalila bị mê hoặc và phản bội, Samson đã trở thành bất lực.

Ca sĩ Jeff Buckley(DR)

Ca sĩ Jeff Buckley
(DR)

 Đoạn 3  như sau:

Baby I have been here

before

I’ve seen this room,

I’ve walked this floor

I used to live alone before

I knew you.

I’ve seen your flag

on the marble arch

Love is not

a victory march

It’s a cold and

it’s a broken Hallelujah

Hallelujah …

Em yêu, anh đã đến đây

ngày trước

Anh đã nhìn thấy căn phòng này

Anh đã từng bước vào nơi đây

Anh sống một mình

Thủa chưa gặp em

Anh nhìn thấy lá cờ em

cắm trên vòm cẩm thạch

Nhưng tình yêu đâu phải

là hành khúc chiến thắng

Tình yêu chỉ là một Hallelujah

lạnh buốt và tan nát

Hallelujah …

Đoạn 4:

There was a time

when you let me know

What’s really going on

below

But now you never show

that to me do you

But remember

when I moved in you

And the holy dove

was moving too

And every breath

we drew was Hallelujah

Hallelujah …

Đã có một thời em

không hề giấu anh

Những gì thực sự diễn ra

thầm kín

Giờ đây, em chẳng còn để lộ

cho anh thấy nữa phải không em.

Hãy nhớ

khi anh chuyển động trong em

Bồ Câu Thánh

cùng chuyển động theo

Mỗi nhịp thở đôi ta

đều là câu Hallelujah

Hallelujah …

Ở đây, tình yêu đã nguội lạnh cho dù cuộc ân ái đã tạo được Phúc Phận (do hình ảnh Bồ câu Thánh cùng chuyển động theo).

Đoạn cuối như sau:

Maybe there’s a god above

But all I’ve ever learned

from love

Was how to shoot somebody

who outdrew you

It’s not a cry

that you hear at night

It’s not somebody

who’s seen the light

It’s a cold

and it’s a broken Hallelujah

Hallelujah …

Có thể có Chúa trên trời

Nhưng điều duy nhất tôi học được

từ tình yêu

Là thanh toán kẻ nào

cao tay hơn mình

Không phải tiếng khóc

nghe trong đêm tối

Không phải ai đó

tìm được ánh sáng

Nó chỉ là một Hallelujah

lạnh buốt và tan nát.

Hallelujah …

Bài ca kết thúc với trải nghiệm cay đắng : Phải hạ gục, thanh toán đối tượng ta đã trót yêu. Leonard Cohen sử dụng động từ “shoot” tức là bắn bỏ. Khi tình yêu đã trở thành cuộc đối đầu lạnh buốt và đầy đổ vỡ.

Ca sĩ Jeff Buckley(DR)

Ca sĩ Jeff Buckley
(DR)

Jeff Buckley - Hallelujah

Ở đây, cần nhắc lại hình ảnh “Nàng trói người vào chiếc ghế trong căn bếp”. Căn bếp tại Âu Mỹ tượng trưng cho mái ấm gia đình, nơi mọi người họp mặt. Nhưng ở đây, nó là biểu tượng của một cái bẫy, trong đó người đàn bà đã giam hãm người đàn ông, đã trói buộc ông như một loài gia súc. Trong nhiều bài thơ của Leonard Cohen, căn bếp là đấu trường, nơi diễn ra sự đối kỵ không nguôi giữa đôi nam nữ, như nước với lửa.

Xuyên suốt bài ca Hallelujah là chuỗi liên tưởng chuyển hóa từ truyền thuyết Thánh Kinh đến cảnh đời thường, bồi đắp cho nhau để thính giả chiêm nghiệm được một điều : Tình yêu Thiên Chúa và Tình yêu giữa con người đều chung số phận. Sau thưở ban đầu mơ tưởng về một hợp âm bí mật, một đức tin mãnh liệt, một mối tương đồng thiêng liêng, cuối cùng, chỉ còn một Hallelujah buồn thảm và lạc loài.

Về mặt giai điệu và tiết tấu, bài ca Hallelujah mang sắc thái một bài Kinh cầu, một lời nguyện, nói lên khát vọng về sự hòa hợp giữa nhục dục và tâm linh. Nhiều tôn giáo đã tôn vinh sự hòa hợp này, đặc biệt là Ấn Độ giáo, khi sex có khả năng đưa con người đến cõi thần bí. Ở đó, sự viên mãn trong giao hợp cho phép con người thăng hoa, nắm bắt được kích thước Vĩnh Hằng.

Nỗi buồn chuyển tải trong bài ca này cũng chính là sức mạnh của nó, sức quyền rũ đối với thính giả Tây Âu khi nó lay động một mạch tiềm ẩn sâu xa : Mạch ý thức tội lỗi trong quan hệ nam nữ, hay nói đúng hơn, ý thức về sự thất cơ của con người đánh mất Địa Đàng. Theo Kinh Mạc Khải, người đàn bà đã ăn trái cấm và đưa trái cấm cho chồng. Ăn xong, “họ đã sáng mắt và biết rằng họ trần truồng”.

Ca sĩ Leonard Cohen(DR)

Ca sĩ Leonard Cohen
(DR)

Một bài ca bền chắc như chiếc xe Volvo

Bài Hallelujah của Leonard Cohen xuất hiện lần đầu năm 1984. Bản thân ca sĩ Leonard Cohen đã trình diễn hai phiên bản khác nhau. Nghe nói đâu, phiên bản chính của bài ca này gồm 15 đoạn chứ không phải năm đoạn như ca sĩ  Jeff Buckley đã trình diễn và được đại đa số nhà phê bình xem là phiên bản xuất sắc nhất. Theo những tiết lộ khác nhau của chính tác giả, thì Leonard Cohen đã tốn từ 3 đến 5 năm để hoàn thành tác phẩm này. Năm 1993, tác giả tuyên bố về bài Hallelujah rằng:

“Bản thân tôi cũng không hề ngờ rằng mình phải lao lực khó khăn đến như vậy, cho đến lúc tôi chợt bắt gặp chính mình, mặc quần áo lót, bò lê bò càng trên sàn nhà, trong một căn phòng cũ nát của khách sạn Royalton, trong tình trạng bất lực, không thể kết thúc nổi một vần thơ”

Hơn 25 năm sau khi được công bố, Hallelujah tiếp tục được cả trăm ca sĩ trình diễn. Năm 2004, phiên bản của Jeff Buckley được tạp chí Rolling Stone’s xếp hạng vào danh sách “500 bài ca hay nhất từ trước đến nay”. Năm 2005, bài này được đứng hạng 10, trong danh sách 10 bài ca hay nhất của Canada, từ xưa tới nay, theo thăm dò của tạp chí Chart.

Năm 2008, vào mùa Giáng sinh, Hallelujah là bài ca đầu tiên chiếm hai ngôi vị , thứ nhất và thứ nhì trong bảng xếp hạng của Anh quốc, nhờ vào hai phiên bản, một của Jeff Buckley và một của Alexandra Burke.

Với bài Hallelujah, Leonard Cohen hoàn thành điều anh mong đợi. Như anh thường nói, anh mang hoài bão xây dựng những bài ca như người ta chế tạo xe Volvo, để có thể bền chắc 30 đến 40 năm sau. Có lẽ bởi vậy mà kể từ năm 1967 đến nay, Leonard Cohen liên tục được ái mộ trên khắp thế giới. Nếu trước đây, Leonard Cohen được công nhận  nhờ vào bài “ Suzanne” hay “Bird on a wire”, ngày nay giới trẻ và khán giả 5 châu mê say “Hallelujah” và “ I’m your man”.

Ưu điểm nổi trội của Leonard Cohen vẫn không thay đổi từ đó đến nay: Đó là những từ ngắn ngủi , không quá 3 âm tiết, đôi khi mang chất thơ, đôi khi rất thông tục và những hình tượng trích dẫn từ Kinh thánh, trên một giai điệu, thoạt nghe rất đơn giản, nhưng cứ lấp lánh mãi trong tâm thức người nghe.

Ain’t no cure for love : Không gì chữa trị nổi tình yêu

Sinh ngày 21 tháng 9 năm 1934 tại Montreal, Canada, trong một gia đình Do thái, Leonard Cohen đã thừa hưởng truyền thống sùng đạo và hành trang tinh thần của một dân tộc đã từng lênh đênh suốt chiều dài của lịch sử. Có thể từ đó mà nỗi bất an của Leonard Cohen đeo đuổi anh cho đến tận bây giờ.

Từ rất sớm, mâu thuẫn giữa đòi hỏi của tâm linh và nhục dục đã nằm ở tâm điểm cuộc đời chàng thi sĩ kiêm ca sĩ- Anh đã từng phán đoán “Không gì chữa trị nổi tình yêu”, cho dù  Leonard Cohen nổi tiếng là kẻ đào hoa “ a ladies' man”, như anh thú nhận vào năm 1977.

Rất nhiều giai nhân đã đi qua cuộc đời thi sĩ đa tình, nhưng đa sầu đa cảm này. Những người vợ, những người yêu, những cuộc tình ngắn ngủi với các người đẹp tứ xứ, những cuộc gặp gỡ nửa đêm nhân các chuyến trình diễn và ngao du thiên hạ, tất cả đã đến rồi đi, để lại một nỗi trống vắng và ít nhiều xót xa. Cho nên ngày nay, Leonard Cohen vẫn cô đơn như thuở vào năm 1967, anh hát trong bài Bird on a wire:

“Như loài chim đậu trên giây kẽm

Như tên say rượu lạc giữa dàn đồng ca đêm

Tôi tìm Tự Do.”

Trong tình yêu đã đành, anh còn tìm cách chữa trị nỗi hoang mang của mình trong nhà thờ Do thái, hay nhiều năm ròng, trong Đạo Thiền. Thậm chí anh đã cạo đầu đi tu nơi cửa Phật năm 1996.

Năm ngoái 2009, khi đã ngoài 70, Leonard Cohen lưu diễn trên toàn thế giới và giành được thành công ngoài sự mong đợi.

Như anh đã kết luận: “Cuộc đời không thể hoàn hảo, nhưng đổi lại, công việc của mình có thể hoàn thiện.”

Leonard Cohen - I'm Your Man