Trọng Nghĩa
Bài đăng ngày 03/08/2009 Cập nhật lần cuối ngày 26/11/2009 10:54 TU
Trong tháng 07/2009 vừa qua, nhiều bài viết khác nhau đã liên tiếp được công bố nhằm đánh động công luận về các tác hại của các con đập nói chung và đặc biệt là loạt đập nước mà Trung Quốc xây dựng trên thượng nguồn sông Mêkông, đối với môi trường và đời sống các cư dân ở vùng hạ lưu là Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam.
Đáng chú ý hơn cả là bài “Đập tại Trung Quốc biến Mêkông thành dòng sông bất hoà’’ của nhà nghiên cứu Michael Richardson, thuộc Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á tại Singapore, đăng trên trang web YaleGlobal của trường Đại Học Yale (Hoa Kỳ) ngày 16/07/2009, và bài “Đập thủy điện đe dọa hàng triệu sinh linh bên dòng Mêkông’’ của Cơ quan phân tích thông tin nhân đạo IRIN thuộc Văn Phòng điều phối các vấn đề Nhân đạo của Liên Hiệp Quốc, công bố ngày 22/07.
Tai họa mà các con đập của Trung Quốc ở bên trên dòng sông Mêkông gây ra cho các quốc gia phía dưới đã từng được nhiều quan sát viên gợi lên, nhưng lần này hiểm họa được cho là sẽ nghiêm trọng hẳn lên vì chính quyền Bắc Kinh chuẩn bị cho vận hành một con đập thứ tư chắn ngang sông Mêkông, to lớn hơn rất nhiều so với các con đập Mạn Loan, Cảnh Hồng và Đại Chiếu Sơn đã đi vào hoạt động.
Đó là đập Tiểu Loan (phiên âm tiếng Anh là Xiaowan), cao 292 thước, tức là gần bằng tháp Eiffel Paris, công suất dự trù 4.200 Mêgawatt, hơn gấp ba lần công suất của ba đập nước đang vận hành. Điều đáng lo ngại hơn cả là dung lượng cực lớn của hồ chứa nước của con đập Tiểu Loan, lên đến 15 tỷ thước khối, tức là gấp năm lần tổng dung lượng của ba con đập đã hoàn thành trước cộng lại.
Cơn khát năng lượng của Trung Quốc đã thúc đẩy nước này hoàn tất công trình xây đập Tiểu Loan sớm hơn một năm. Đập này đã bắt đầu lấy nước vào hồ chứa và chuẩn bị cho chạy tổ máy phát điện đầu tiên vào tháng 9/2009 ! Song song với Tiểu Loan, một con đập khác cũng đang được Bắc Kinh ráo riết thi công là đập Nọa Trác Độ (Nuozhadu), còn to lớn hơn, với hồ chứa hút tới gần 23 tỷ mét khối nước, gần gấp đôi hồ Tiểu Loan. Theo kế hoạch, con đập đó sẽ hoàn tất vào năm 2014 !
Đập càng lớn thì tác hại càng nhiều
Trả lời phỏng vấn của RFI, anh Nguyễn Đức Hiệp, chuyên viên môi trường tại Úc đã từng nghiên cứu vấn đề này xác đinh rằng đập càng lớn thì nguy hại càng nhiều : « Khi hoàn thành xong, đập Tiểu Loan là đập lớn thứ hai ở Trung Quốc sau đập Tam Hiệp ở sông Dương Tử. Với hồ chứa rộng 190 km2, Tiểu Loan có thể chứa 15 tỷ tấn nước, cho nên ảnh hưởng xuống dưới hạ nguồn rất đáng quan tâm. Trung Quốc còn dự trù thêm một con đập lớn khác, dưới đập Tiểu Loan, vì thế quan ngại về môi trường rất lớn ».
Nguy cơ nước sông Mêkông bị các đập thủy điện Trung Quốc ở đầu dòng hút hết là một trong những vấn đề từng được các nhà nghiên cứu nêu bật từ mấy năm nay, với những hậu quả khôn lường đối với các nước thiếu may mắn nằm ở dưới hạ lưu trong đó có Việt Nam.
Vào tháng Năm vừa qua, một công trình nghiên cứu hỗn hợp giữa Cơ quan Bảo vệ Môi trường Liên Hiệp Quốc UNEP và Viện Công Nghệ học Châu Á AIT đã công khai cảnh cáo rằng kế hoạch xây dựng 8 con đập trên thượng nguồn sông Mêkông có thể trở thành một “mối đe dọa đáng kể” cho dòng sông và tài nguyên thiên nhiên đến từ con sông, nêu bật nguy cơ đối với Việt Nam và Cam Bốt.
Đối với Việt Nam, việc lưu lượng nước sông Mêkông bị giảm do bị đập nước Trung Quốc hút từ trên thượng nguồn sẽ làm gia tăng hiểm họa vùng Đồng bằng sông Cửu Long bị nước biển tràn vào, và đất đai bị hoá phèn, không trồng trọt được. Cộng thêm với nguy cơ mực nước biển dâng lên do biến đổi khí hậu, những diện tích canh tác rộng lớn có thể sẽ bị ngập lụt, buộc hàng triệu con người phải di tản. Đồng Bằng sông Cửu Long vốn là vựa thóc của cả nước, các thiệt hại sẽ cực kỳ nghiêm trọng.
Đối với Cam Bốt, tình hình cũng không sáng sủa hơn. Mực nước sông Mêkông bị giảm sẽ đe doạ đến Biển Hồ, vựa cá của toàn vùng, khiến cho kế sinh nhai của hàng triệu ngư dân bên dòng Mêkông bị tổn hại. Về các tác hại nêu trên, anh Nguyễn Đức Hiiệp nói rõ thêm :
« Mặc dù trên thượng nguồn chỉ có khoảng 25% tổng lưu lượng nước sông Cửu Long, nhưng đập Tiểu Loan rất lớn sẽ ảnh hưởng đến lưu lượng dưới hạ nguồn. Thay đổI về lưu lượng nước tất nhiên tác động đến mực sinh sản của các loài cá, thí dụ như loài cá trê rất lớn và cá heo nước ngọt, thường sinh sản ở hồ Tonle Sap (Biển Hồ), Cam Bốt vào muà nước lũ, và lội ngược lên thượng nguồn ở Lào…
Sông Cửu Long thường tải rất nhiều phù sa về vùng đồng bằng Nam bộ nhân mùa lũ.
(Ảnh : Nguyễn Thạch)
Hơn nữa, vì rất lớn, hồ chứa của đập Tiểu Loan sẽ giữ lại rất nhiều phù sa của con sông cho nên sẽ ảnh hưởng đến hạ nguồn. Đồng bằng sông Cửu Long thường nhận được phù sa rất nhiều, lượng nước cũng khá. Nếu nước ít đi, lượng phù sa sẽ giảm, trong lúc nước biển có thể lấn sâu vào lưu vực sông Cửu Long phiá hạ nguồn ».
Thực tế phản bác luận điểm của Bắc Kinh về "lợi ích" các đập nước
Lẽ dĩ nhiên là phiá Trung Quốc đã nhất loạt bênh vực cho các con đập của họ, cho rằng các công trình này sẽ ảnh hưởng tích cực đến môi trường khu vực. Các hồ chứa sẽ giúp điều hoà mực nước sông Mêkông, giảm được lượng nước chẩy vào mùa mưa, giúp các nước phiá dưới không bị lụt, giúp cho bờ sông không bị sói mòn. Còn trong mùa khô, nước xả ra từ các đập thuỷ điện sẽ giúp các quốc gia hạ nguồn không bị khô hạn.
Vấn đề trên lý thuyết là như vậy, nhưng trong thực tế, theo giới bảo vệ môi trường, thì chỉ mới có ba con đập nhỏ đi vào hoạt động mà thôi mà tác động tiêu cực đối với các nước ở phiá dưới đã xuất hiện, chẳng hạn như nguồn cá đã giảm sút hẳn trong lúc hiện tượng bờ sông bị sạt lở vì sói mòn đã phát sinh từ Miến Điện qua miền Bắc Thái Lan và miền Bắc Lào. Đây cũng là ghi nhận của anh Nguyễn Đức Hiệp :
« Trung Quốc nói là nhờ đập Tiểu Loan và các đập nước khác trên thượng nguồn, có thể điều hoà được lưu lượng nước sông Mêkông, thí dụ như mùa khô thì xả nước xuống, mùa lũ thì giữ nước lại, tránh được lụt lội ở phiá hạ nguồn.Thế nhưng thực tế là trong nhiều năm không thấy có sự thay đổi nào mà nhiều khi, như năm ngoái, thình lình trong mùa lũ, nước dâng lên rất mạnh và vùng Hạ Lào và Đông Bắc Thái Lan đã bị lụt rất lớn, bờ sông bị sói mòn, nhiều làng mạc bị phá hủy.
Dân ở những nơi đó than phiền là tai họa đến từ các đập nước trên thượng nguồn phiá Trung Quốc. Đã có những lời phản đối từ phiá Thái Lan và Lào. Trung Quốc nói là làm một việc, nhưng thực tế những gì xẩy ra lại khác.Thêm nữa là Trung Quốc hiện nay không nằm trong Ủy Hội Sông Cửu Long. Lý do có thể là vì họ muốn được làm bất cứ việc gì trên lãnh thổ của họ mà không cần quan tâm đến phía hạ nguồn. »
Việt Nam bắt đầu lên tiếng lo ngại nhưng một cách gián tiếp
Vấn đề đặt ra hiện nay là những lời báo động chủ yếu đến từ xã hội công dân, từ các tổ chức phi chính phủ, trong lúc chính quyền các nước hạ nguồn sông Mêkông tránh trực diện đối đầu với Trung Quốc trên vấn đề này. Riêng phiá Việt Nam, ngày 09/07/2009 vừa qua, đã chính thức lên tiếng bày tỏ thái độ quan ngại trước việc các đập thủy điện xây dựng trên thượng nguồn sông Mekong có thể tác hại tới dòng chảy con sông và môi trường sinh thái đặc biệt với các nước hạ nguồn. Tuy nhiên, phát ngôn viên Bộ Ngoại giaoViệt Nam, ông Lê Dũng, chỉ tuyên bố chung chung cho rằng : “Sông Mekong là sông quốc tế, việc khai thác cần tính đến lợi ích các nước trong lưu vực, bảo vệ môi trường và dân cư sinh sống dọc sông Mekong.”
Theo ghi nhận của anh Nguyễn Đức Hiệp, dù sao thì phản ứng nói trên lần này đáng chú ý vì từ trước đến nay, chính quyền Việt Nam ít khi đề cập đến vấn đề đập thủy điện trên dòng Mêkông :
« Việt Nam ít khi lên tiếng, vừa rồi mới có phản ứng chứ mấy năm trước thì hoàn toàn im lặng. Ngay cả đối với những đập dự kiến xây ở Lào,Cam Bốt,Thái Lan… Việt Nam cũng không lên tiếng. Trong thực tế, Việt Nam cũng có xây một cái đập ở Tây Nguyên trên sông Sesan. Đập Yali đó cũng ảnh hưởng đến mấy tỉnh Đông Bắc Cambốt. Hiện nay trong vấn đề này, Việt Nam cho là việc xây các đập trên sông Cửu Long nên được phối hợp một cách hợp pháp giữa tất cả các nước chứ không nên là chỉ một vài quốc gia tiếp tục làm như hiện nay. Nhưng mà vấn đề quan trọng hiện nay là đập ở thượng nguồn phía Trung Quốc, nước này có thể nói là hoàn toàn không tham khảo ý kiến ai về các đập đó ».
Theo nhà nghiên cứu Michael Richardson, trong bài ‘’Đập tại Trung Quốc biến Mêkông thành dòng sông bất hoà’’, do việc không có một hiệp định quốc tế nào chi phối việc sử dụng các con sông liên quốc gia, Trung Quốc nước ở đầu nguồn nắm thế thượng phong, và quyền tùy nghi phát triển khúc sông trên lãnh thổ của họ : ‘’Họ đã hành động đúng như vậy mà không cần tham khảo ý kiến ai, chứ đừng nói chi đến việc xin các nước khác đồng ý’’.
Trong khu vực hạ nguồn sông Mêkông, có Ủy Ban Sông Mekong, một định chế liên chính phủ tập hợp 4 nước vùng hạ lưu, rất quan tâm đến vấn đề, nhưng lại không có uy thế gì đối với Trung Quốc. Michael Richardson ghi nhận là cho đến nay, Trung Quốc chỉ đồng ý làm “đối tác đối thoại” của Ủy Ban sông Mêkông mà tránh không gia nhập định chế này hay tuân thủ những quy định hướng dẫn quản lý tài nguyên thiên nhiên của Uỷ Ban. Theo Richardson, quy chế thành viên sẽ khiến cho kế hoạch xây đập của Trung Quốc trên thượng nguồn dòng Mêkông bị các nước Đông Nam Á ở hạ nguồn giám sát kỹ lưỡng hơn, qua đó gây sức ép buộc Bắc Kinh quan tâm đến quyền lợi của họ.
Nhờ hợp tác với Mỹ, Ủy Ban sông Mêkông có thể tăng cường uy tín
Tình hình sắp tới đây có thể đổi khác với việc Hoa Kỳ chính thức đặt quan hệ hợp tác với 4 nước hạ nguồn sông Mêkông cũng như với Ủy ban sông Mêkông. Theo anh Nguyễn Đức Hiệp, sự can dự của Mỹ sẽ rất tốt cho Ủy ban sông Mekong, cả về uy thế chính trị lẫn năng lực kỹ thuật.
« Ủy hội sông Mekong không được Trung Quốc coi ra gì và thường không được Bắc Kinh tham khảo ý kiến. Được Mỹ ủng hộ và hợp tác, Ủy hội có thể nâng cao trọng lượng của mình lên rất nhiều. Thứ hai nữa, các nước hạ nguồn có thể nâng cao chất lượng hợp tác về môi trường, quản lý tài nguyên.
Thí dụ như các nước ở hạ nguồn như Lào, Cam Bốt, trong mấy năm vừa qua, đã dự tính xây rất nhiều đập và bị nhiều tổ chức phi chính phủ phản đối. Dự định xây đập Don Sahong ở Hạ Lào, giáp giới với Cam Bốt chẳng hạn, đã bị chính phủ Cam Bốt phản đối rất nhiều vì có ảnh hưởng rất xấu về vấn đề đánh cá. Nếu có sự hợp tác của các nước với lại bên ngoài, nâng cao uy tín của Ủy hội sông Mekong, nâng cao chất lượng nghiên cứu các vấn đề về môi trường, quản lý tài nguyên thì có thể tiếp tục làm mà không sợ bị lên tiếng phản đối.
Ngoài ra, mấy năm gần đây, rất nhiều đập đang đươc dự định xây ở Hạ Lào và Cam Bốt và các công ty Trung Quốc trúng thầu rất nhiều. Nhưng vấn đề đánh giá tác động môi trường thì hầu như là không có nghiên cưú bài bản, không được quan tâm lắm vì vậy mà nhiều tổ chức phản đối. Nếu Ủy hội sông Mekong có trọng lượng, và được sự hỗ trợ của nhiều nước khác , như Úc vừa rồi có viện trợ cho Ủy hội sông Mekong một số tiền khá lớn để họ mướn nhiều nguờI hơn, làm việc một cách tốt đẹp hơn, thì vấn đề quản lý tài nguyên và quản lý môi trường sẽ được nâng cao hơn.
Nhìn chung, tác hại của đập Tiểu Loan cũng như các con đập khác của Trung Quốc trên sông Mêkông và các nước hạ nguồn đã được nhiều công trình nghiên cứu xác định. Theo chuyên gia môi trường Nguyễn Đức Hiệp, chỉ tiếc rằng các nghiên cứu đó chưa được phổ biến rộng rãi, trong lúc giới khoa học Việt Nam lại chưa quan tâm đúng mức :
« Có một số công trình của cá nhân, của một số nhà khoa học, trên vấn đề tác động đên thủy sản, lưu lượng nước, phù sa... Các tổ chức phi chính phủ thì chuyên về tác động kinh tế, xã hội đối với cư dân trong vùng. Tác động về môi trường thì cũng có một số nghiên cưú của giới khoa học nhưng đưa đươc phổ biến rộng rãi.
Hiện nay tôi chưa thấy có nghiên cứu gọi là bài bản tại Việt Nam. Tôi nghĩ là Việt Nam nên thiết lập một trung tâm nghiên cứu về vấn đề sông Cửu Long, không những về môi trường mà về tất cả các vấn đề tài nguyên sông Cửu Long. Có thể như một số ngườI đề nghị, là nên thiết lập một Trung Tâm đó ví dụ như ở trường Đại học Cần Thơ. Một trung tâm nghiên cứu như vậy rất tốt.
RFI thành thật cảm ơn anh Nguyễn Đức Hiệp đã tham gia vào chương trình hôm nay. Mời quý vị nghe bài phỏng vấn dưới đây :
THỜI SỰ
MỖI NGÀY MỘT SỰ KIỆN
PHỎNG VẤN
ĐIỂM BÁO